Những đứa con của nửa đêm
Phan_23
“Ra ngay!” Evie Burns hét lên. Tay giơ lên trán. Tôi đạp xe, mắt đẫm lệ, ngụp vàovàovào: đến nơi Evie đứng ở ngưỡng cửa một phòng ngủ ốp ván, tay cầm một, một thứ gì đó sắc và lóe sáng với màu đỏ đang rỏ xuống, trên ngưỡng cửa một, lạy Chúa và trên giường có một người đàn bà mặc áo hồng, lạy Chúa, và Evie cầm một, và đỏ vấy lên hồng, và có một người đàn ông xuất hiện, lạy Chúa, và không không không không không...
“CÚT RA CÚT RA CÚT RA!” Bọn nhóc ngơ ngác nhìn Evie hét lên, đoàn diễu hành ngôn ngữ bị quên đi, rồi lại bất ngờ được nhớ đến, vì Evie đã nắm lấy đuôi xe của con Khỉ CẬU LÀM GÌ THẾ EVIE rồi đẩy nó CÚT RA MAU ĐỒ VÔ DỤNG CÚT XUỐNG HỎA NGỤC ĐI! – Nàng đẩy tôi thật lực, và tôi mất kiểm soát sầm sập lao xuống dốc vòng qua khúc cua chữ U xuốngxuống, LẠY CHÚA ĐOÀN BIỂU TÌNH qua tiệm giặt là Band Box, qua Noor Ville và Laxmi Vila, AAAAA và lao xuống miệng đoàn diễu hành, nào đầu nào chân nào người, những làn sóng biểu tình rẽ ra khi tôi đến, kêu gào thảm thiết, đâm thẳng vào lịch sử trên chiếc xe đạp mất lái, của con gái.
Những bàn tay nắm lấy ghi đông khi tôi chậm lại giữa đám đông cuồng nhiệt. Những nụ cười đầy răng chắc khỏe vây quanh tôi. Nhưng không phải cái cười thân thiện. “Chà chà, có cậu laad-sahid từ ngọn đồi giàu có xuống gia nhập với chúng ta này!” Bằng tiếng Marathi mà tôi gần như chả hiểu gì, đó là môn bết bát nhất của tôi ở trường, và những nụ cười hỏi, “Cậu muốn gia nhập S.M.S hử, tiểu hoàng tử?” Và tôi, đại khái cũng biết họ nói gì, nhưng choáng quá đâm ra nghĩ gì nói nấy, lắc đầu Không. Và những nụ cười, “Ô hô! Cậu nawab trẻ không thích tiếng của ta! Thế cậu ta thích gì?” Lại một nụ cười nữa, “Chắc là Gujarati! Cậu nói tiếng Gujarati chứ, cậu chủ?” Nhưng tiếng Gujarati của tôi cũng chả hơn gì Marathi; tôi chỉ biết có một câu chuyện của thứ tiếng ẩm thấp vùng Kathiawar; và những nụ cười, giục giã, và những ngón tay, đâm thọc, “Nói đi, cậu chủ nhỏ! Nói vài câu Gujarati đi!” – thế là tôi nói vài câu tôi biết, một câu vè tôi nghe được ở trường từ Keith Colaco Nội tiết, mà thằng đấy hay dùng khi nó bắt nạt mấy đứa người Gujarat, một câu vè để chế nhạo ngữ điệu của thứ tiếng này:
Soo che? Saru che!
Danda le ke maru che!
Mi thế nào? – Tau khỏe re! – Để tau lấy gậy nện tòe đầu mi! Một câu tầm phào; một bài vớ vẩn; chín từ vô nghĩa... song khi tôi nói lên, những cái cười mỉm chuyển thành cười phá; thế rồi những giọng ở gần tôi rồi xa hơn rồi xa hơn nữa bắt đầu hát tiếp câu vè MI THẾ NÀO? TAU KHỎE RE!, và họ hết hứng với tôi, “Thôi đi đạp xe tiếp đi, cậu cả,” họ giễu, ĐỂ TAU LẤY GẬY NỆN TÒE ĐẦU MI, tôi chạy biến lên đồi trong khi bài vè của tôi lan ra phía trước và sau, lên tận đầu và xuống tận cuối đoạn người kéo-dài-hai-ngày, trở thành, trên đường đi của nó, một bài hát chiến tranh.
Buổi chiều hôm đó, đầu đoàn diễu hành của Samyukta Maharashtra Samiti va chạm tại Góc Phố Kemp, với đầu đoàn biểu tình của Maha Gujarat Parishad; những giọng S.M.S. cất lên “Soo che? Saru che!!” và những cổ họng M.G.P. há ra phẫn nộ; dưới những tấm poster Tiểu vương Hàng không Ấn Độ và Cậu bé Kolynos, hai bên đâm bổ vào nhau với bầu máu nóng không hề nhỏ, và theo nhịp điệu câu vè nhỏ bé của tôi, cuộc bạo loạn ngôn ngữ đầu tiên nổ ra, mười lăm người chết, hơn ba trăm người bị thương.
Theo cách này, tôi trở thành người trực tiếp chịu trách nhiệm về việc khơi mào làn sóng bạo lực kết thúc bằng sự chia cắt bang Bombay mà hệ quả của nó là thành phố trở thành thủ phủ của bang Maharashtra – vậy là ít nhất tôi cũng về phe thắng cuộc.
Cái gì ở trong đầu Evie? Tội ác hay giấc mơ? Tôi không bao giờ tìm ra; nhưng tôi đã học được một thứ khác: khi ta đi sâu vào đầu người khác, họ có thể cảm thấy ta ở đó.
Sau ngày hôm ấy, Evelyn Lilith Burns không muốn dính gì với tôi nữa; nhưng, kỳ lạ thay, tôi cũng hết bệnh tương tư. (Đàn bà luôn là người thay đổi đời tôi: Mary Pereira, Evie Burns, Jamila Ca sĩ, Parvati phù thủy phải trả lời câu hỏi tôi là ai; và cả Mụ Góa phụ, người tôi giữ lại cho cái kết; và sau cái kết, là Padma, nữ thần phân của tôi. Đàn và đã nhào nặn đời tôi ra trò, song có lẽ họ chưa bao giờ ở trung tâm – có lẽ vị trí lẽ ra họ phải lấp đầy, cái lỗ giữa người tôi mà tôi thừa kế từ ông ngoại Aadam Aziz, đã bị những giọng nói trong tôi chiếm giữ quá lâu. Hoặc cũng có lẽ - cần phải tính đến mọi khả năng – họ luôn luôn làm tôi hơi e sợ.)
Chương 14: Sinh nhật thứ mười của tôi
“Ôi thưa ông, em biết nói gì? Lỗi tại em mọi đàng!”
Padma đã quay về. Và, giờ khi tôi đã bình phục khỏi cơn ngộ độc và trở lại bàn làm việc, lại xoắn xuýt đến nỗi không yên lặng được. Hết lần này đến lần khác, bông sen trở lại của tôi dằn vặt bản thân, đấm bộ ngực nặng nề, rền rĩ đến rát họng. (Với tình trạng mong manh của tôi, kiểu này khá là mệt mỏi; nhưng tôi không trách gì cô cả.)
“Cứ tin em đi, thưa ông, rằng em quan tâm sức khỏe của ông biết mấy! Thật là những sinh vật kỳ lạ, đàn bà chúng em, không phút nào yên dạ được khi người đàn ông của mình ốm đau phiền muộn... Ông khỏe rồi là em mừng lắm, ông chẳng biết đâu!”
Câu chuyện của Padma (kể bằng chính lời cô, và đọc lại cho cô nghe để được phê duyệt bằng những đảo mắt, than vãn, đấm ngực): “Chỉ tại lòng kiêu hãnh và tự cao ngu dại của em, Saleem baba, xui khiến em rời bỏ ông, mặc dầu công việc ở đây rất tốt, và ông thì rất cần người chăm sóc! Nhưng chửa được bao lâu em đã nóng ruột muốn quay về.”
“Thế là em nghĩ, làm sao để trở lại với cái người sẽ chẳng yêu em mà chỉ ngồi viết nhăng viết cuội? (Tha lỗi cho em, Saleem baba, nhưng em phải nói thật. Và tình yêu, với đàn bà chúng em, là thứ lớn lao nhất.)”
“Thế là em đi tìm một ông thầy, ông ấy dạy em phải làm gì. Trong túi còn mấy đồng, em bắt xe buýt về quê để đào cây thuốc, có nó dương căn của ông sẽ có thể được đánh thức dậy... hãy tưởng tượng, thưa ông, em đã khấn những lời này: ‘Hỡi cây thuốc được Bò Mộng nhổ lên!’ Rồi em nghiền cây thuốc với nước với sữa và đọc, ‘Hỡi cây thuốc tráng dương ích khí! Được thần Varuna[1] sai Gandharva đào lên! Hãy cho ngài Saleem của ta sức mạnh. Nhiệt như Ngọn lửa của thần Indra. Như linh dương đực, hỡi cây thuốc, mi có mọi sức mạnh trên đời, mi có quyền năng của Indra, và sinh lực của thú hoang’.”
[1] Theo kinh Vệ Đà, Varuna là thần của bầu trời, của nước. Trong thần thoại Hindu, Varuna là thần nước, đặc biệt là các đại dương.
“Mang theo món thuốc này em trở về, thấy ông vẫn một mình như mọi khi và luôn chúi mũi vào viết lách. Nhưng lòng ghen tuông, em thề, em đã bỏ lại sau; nó lộ ra ngoài mặt và làm ta già đi. Ôi Chúa tha thứ cho em, em lặng lẽ bỏ thang thuốc vào thức ăn của ông!... Thế rồi, hai-hai, xin Thượng đế tha thứ cho con, nhưng con chỉ là một mụ đàn bà bình thường, nếu thầy pháp bảo vậy, làm sao con dám cãi?... Nhưng ít nhất thì bây giờ ông đã khá hơn, tạ ơn Chúa, và mong sao ông đừng giận.”
Dưới dược lực từ liều thuốc của Padma, tôi bị mê sảng một tuần liền. Đóa sen-phân của tôi (qua hàm răng nghiến chặt) thề rằng tôi cứng đờ như tấm ván, miệng sùi bọt mép. Tôi còn bị sốt. Trong cơn mê sảng tôi ú ớ về rắn; nhưng tôi biết Padma không phải xà tinh, và không bao giờ muốn hại tôi.
“Tình yêu, thưa ông,” Padma than thở, “nó làm đàn bà hóa điên.”
Tôi nhắc lại: tôi không trách Padma. Dưới chân dãy Tây San cô tìm kiếm cây thuốc tráng dương, mucuna pruritus và rễ cây feronia eleplantum; ai biết cô đã tìm thấy gì? Ai biết thứ gì, được nghiền với sữa và trộn với thức ăn của tôi, đã ném ruột gan tôi vào trạng thái “khuấy đảo” và từ đó, như mọi sinh viên môn vũ trụ học Hindu đều biết, Indra đã tạo ra vật chất, bằng cách khuấy món súp khởi nguyên trong thùng sữa vĩ đại của mình? Có hề gì. Đó là một nỗ lực cao quý; nhưng tôi đã vượt quá giới hạn có thể tái tạo – mụ Góa phụ đã kết liễu tôi. Kể cả cây mucuna thật cũng không thể đặt dấu chấm hết cho sự bất lực của tôi; feronia sẽ không thể nào khơi dậy được trong tôi “sinh lực của thú hoang”.
Dù vậy, một lần nữa tôi lại ngồi trước bàn; một lần nữa Padma ngồi dưới chân tôi, thúc giục tôi. Tôi lại cân bằng như trước – phần đế tam giác cân của tôi đã vững chãi. Tôi bay lượn trên đỉnh, trên hiện tại và tương lai, và cảm thấy mạch văn đã trở lại với ngòi bút của mình.
Một thứ ma thuật đã được thực thi; và hành trình đi tìm tình dược của Padma đã nối kết tôi trong chốc lát với thế giới của tri thức cổ xưa và học vấn của giới phù thủy mà ngày nay bị hầu hết chúng ta kinh rẻ; nhưng (bất chấp những cơn co thắt dạ dày và sốt và sùi bọt mép) tôi lấy làm mừng vì nó đã xâm nhập vào những ngày cuối cùng của tôi, bởi nghiền ngẫm nó cũng đồng nghĩa với việc tìm lại một chút ý niệm đã mất về tỉ lệ.
Nghĩ mà xem: lịch sử, trong phiên bản của tôi, bước sang một thời kỳ mới vào ngày 15 tháng Tám năm 1947 – nhưng theo một phiên bản khác, cái ngày không thể tránh khỏi ấy chỉ là một sát na không hơn trong Kỷ nguyên Tăm tối, Kali-Yuga, khi con bò của Pháp[2] chỉ còn đứng, chênh vênh, trên duy nhất một chân! Kali-Yuga, cú đổ thất bại trong trò xúc xắc của đất nước này; thời kỳ tồi tệ nhất; kỷ nguyên khi tài sản mang lại cho con người đẳng cấp, khi giàu sang tương đương với phẩm giá, khi dục vọng trở thành sự gắn kết duy nhất giữa đàn ông và đàn bà, khi dối trá đem lại sự thành công (có gì đáng ngạc nhiên khi, ở một thời kỳ như thế, tôi cũng lăn lộn giữa cái tốt và cái xấu?)... bắt đầu từ thứ Sáu, ngày 18 tháng Hai, năm 3102 trước Công nguyên; và chỉ kéo dài có 432.000 năm! Đã kịp thấy mình có phần bé mọn, tôi vẫn phải bổ sung rằng Kỷ nguyên Tăm tối chỉ là giai đoạn thứ tư của chu kỳ Maha Yuga hiện tại, vốn có độ dài, tổng cộng, gấp mười lần; và khi tính rằng phải mất một ngàn Maha Yuga mới bằng một Ngày của Brahma, quý vị sẽ hiểu ý tôi khi nói đến tỉ lệ.
[2] Theo quan niệm của đạo Hindu, biểu trưng của Pháp (dharma) là con bò. Trong kỷ nguyên đầu tiên, hoàng kim của thế giới (Satya Yuga), con bò có bốn chân, nhưng qua mỗi kỷ nguyên, Pháp lại tiêu hao mất một phần tư. Đến kỷ nguyên Kali, con bò của Pháp chỉ còn có một chân. Có thể hiểu là thời mạt pháp.
Một chút khiêm nhường vào thời điểm này (khi tôi đang run rẩy chuẩn bị giới thiệu Những đứa trẻ) không có gì là, như tôi thấy, lạc lõng.
Padma đổi thế ngồi, lún túng. “Ông nói gì vậy?” cô hỏi, mặt hơi đỏ lên. “Đấy là chuyện của Bà la môn; có liên quan gì đến em chứ?”
... Sinh ra và được giáo dưỡng theo truyền thống đạo Hồi, tôi bỗng nhiên thấy mình choáng ngợp trước một nguồn tri thức cổ xưa hơn; trong khi ở đây cạnh tôi là Padma của tôi, mà sự trở về của nàng tôi đã mong mỏi biết bao nhiêu... Nàng Padma của tôi! Nữ thần Hoa sen; Người Sở hữu Phân; người Ngọt Như Mật và Làm Bằng Vàng; có hai đứa con là Hơi ẩm và Bùn...
“Ông chắc là chưa hết sốt,” cô phản đối, cười khúc khích. “Cài gì mà làm bằng vàng, hở ông? Và ông thừa biết em làm gì có co...”
... Padma cùng với các dạ xoa[3], những vị thần đại diện cho các bảo vật thiêng liêng của trái đất, cho các con sông thiêng Ganga Yamuna Sarasvati[4], và với các nữ thần cây, là một trong các thần Bảo hộ Sự sống, mê hoặc và an ủi phàm nhân khi họ đi qua lưới mộng của Ảo ảnh[5]... Padma, đài Sen, mọc ra từ rốn của thầnVishnu, và từ đó chính Brahma đã ra đời; Padma Nguồn cội, mẹ của Thời gian!...
[3] Yaksa, tiếng Hán là dạ xoa. Theo đạo Hindu và đạo Phật, dạ xoa là các linh thần bảo vệ những báu vật của tự nhiên ẩn dưới lòng đất và dưới gốc cây.
[4] Ba con sông thiêng của Ấn Độ, trong đó Ganga (sông Hằng) và Yamuna là hai con sông có thật, còn con sông thứ ba, Sarasvati, chỉ tồn tại trong thần thoại.
[5] Maya, chỉ thế giới hiện tượng đang liên tục thay đổi trong mắt của phàm nhân chưa giác ngộ.
“Này,” giọng cô bắt đầu có vẻ lo âu, “đưa em sờ trán xem nào!”
... Và tôi, trong hệ thống những thứ này, ở đâu? Có phải tôi (được mê hoặc và an ủi bởi sự trở về của cô) chỉ là phàm nhân – hay còn gì hơn thế? Ví dụ như – phải, sao lại không – vòi ma mút, mũi Ganesh như tôi đây – thần Voi, chẳng hạn. Người, giống như thần mặt trăng Sin, điều khiển nước, ban phát mưa... có mẹ là Ira, ái phi của Kashyap, tức Quy Lão, chúa tể và tổ tiên của muôn loài trên trái đất... thần Voi, đồng thời là cầu vồng, và sấm sét, vị thần mà ý nghĩa biểu tượng, tôi phải bổ sung, rất nhiều nghi vấn và không rõ ràng[6].
[6] Kashyap (con rùa) là một trong bảy đấng trí giả (rishi) do thần Vishnu tạo ra, và là thủy tổ của muôn loài. Ira là một trong mười người vợ của Kashyap, sinh ra một đàn voi. Con voi trắng Airavata là vật cưỡi của thần Indra. Indra khi cưỡi voi một tay cầm lưỡi tầm sét, một tay cầm cầu vồng. Bản thân chữ Airavata cũng có nghĩa là cầu vồng.
Ừ thì: khó nắm bắt như cầu vồng, khó dự đoán như sấm sét, ba hoa như Ganesh, có vẻ như tôi, rốt cuộc, đã có một vị trí trong kho tàng tri thức cổ xưa.
“Lạy Chúa.” Padma bổ đi tìm khăn để dấp nước lạnh, “trán ông như đang bốc hỏa ấy! Tốt hơn ông nên nằm xuống; giờ này chưa thể viết lách được đâu! Mê sảng đang nói đây mà; không phải ông.”
Nhưng tôi đã mất một tuần; vậy nên, sốt hay không sốt, tôi cũng phải tiếp tục; bởi vì, sau khi (tạm thời) vắt kiệt cái bút pháp kể-chuyện-ngày-xưa này, tôi sắp tiến tới trung tâm kỳ ảo của câu chuyện của chính tôi, và phải viết một cách công khai chân xác, về những đứa trẻ nửa đêm.
sHãy hiểu điều tôi sắp nói: trong giờ đầu tiên của ngày 15 tháng Tám năm 1947 – từ nửa đêm đến một giờ sáng – không dưới một nghìn lẻ một đứa trẻ đã chào đời bên trong đường biên giới của quốc gia Ấn Độ chủ quyền non trẻ. Về bản chất, đây không phải là một sự kiện bất thường (tuy rằng con số này mang âm hưởng văn chương một cách kỳ lạ) - ở thời kỳ đó, tỉ lệ sinh trên mảnh đất này vượt tỉ lệ tử khoảng 687 người một giờ. Điều khiến sự kiện này đáng chú ý (đáng chú ý! có một từ trung tính thế đấy, nếu quý vị thích!) là bản chất của những đứa trẻ này, mỗi người trong số chúng đều, do một biến dị sinh học, hoặc do mộ thế lực siêu nhiên nào đó vào thời điểm ấy, hoặc chỉ dễ hiểu là sự trùng hợp (tuy rằng một sự ngẫu nhiên xảo hợp ở quy mô ấy sẽ làm choáng váng cả C.G.Jung), được phú cho những đặc tính, thiên khiếu, hay năng lực chỉ có thể được miêu tả bằng hai chữ kỳ diệu. Cứ như thể - nếu quý vị cho phép tôi một khoảnh khắc tưởng tượng trong cái mà nếu không có nó thì sẽ là sự tường thuật nghiêm túc nhất tôi có thể thực hiện, tôi cam đoan vậy – cứ như thể lịch sử, đến một thời điểm của tầm vóc và triển vọng tối cao, đã quyết định gieo xuống, vào thời khắc ấy, những hạt giống của một tương lai rồi sẽ hoàn toàn khác bất kỳ thứ gì thế giới này từng chứng kiến cho đến thời điểm ấy.
Nếu một phép mầu tương tự có xảy ra bên kia biên giới, tại quốc gia vừa-bị-cắt-ra Pakistan, tôi cũng không biết gì cả; linh lực của tôi, trong thời gian tồn tại của chúng, bị giới hạn không chỉ bởi Biển Ả Rập, vịnh Bengal, dãy Himalaya, mà cả đường biên giới nhân tạo đã cắt xẻ Punjab và Bengal.
Lẽ tất nhiên, một số đứa trẻ đã không thể sống sót. Suy dinh dưỡng, bệnh tật và những rủi ro của cuộc sống hằng ngày đã lấy đi không dưới bốn trăm hai mươi sinh mệnh trước thời điểm tôi đến sự tồn tại của chúng; mặc dù có thể giả định rằng tất cả những cái chết này, cũng có mục đích của nó, bởi vì 420[7], không biết từ bao giờ đã là con số gắn liền với lừa đảo, dối trá và gian lận. Vậy thì, có thể nào, những đứa bé biến mất ấy bị đào thải vì chúng, trên một phương diện nào đó, không xứng đáng, và không phải là những đứa con đích thực của nửa đêm ấy? À, trước hết, đây lại là một cuộc du ngoạn khác vào cõi giả tưởng; thứ hai, nó còn tùy thuộc vào cách nhìn cuộc đời vừa đầy rẫy thần quyền vừa tàn bạo đến dã man này. Đó cũng là một câu hỏi không thể trả lời; mọi cố gắng tìm hiểu sâu hơn bởi thế chỉ là vô ích.
[7] Khoản 420 trong Luật Hình sự Ấn Độ, ra đời từ 1862, là điều khoản quy định về tội lừa đảo. 420 do vậy trở thành tên lóng để chỉ những kẻ hành nghề lừa đảo.
Tới năm 1957, năm trăm tám mươi mốt đứa trẻ sống sót đều sắp đến sinh nhật thứ mười, phần lớn hoàn toàn không biết đến sự tồn tại của nhau, mặc dù có một số ngoại lệ nhất định. Tại thị trấn Baud, bên bờ sông Mahanadi ở Orissa, có một cặp chị em song sinh đã trở thành huyền thoại trong vùng bởi vì bất chấp nhan sắc bình phàm đến kinh ngạc, cả hai đều có khả năng làm mọi người đàn ông gặp mặt mình si mê họ một cách vô vọng và tự diệt, đến nỗi bậc cha mẹ ngỡ ngàng của họ không ngừng bị làm phiền bởi một dòng người đến cầu hôn một hoặc thậm chí cả hai đứa trẻ bí hiểm; những ông già đã từ bỏ sự thông thái của chòm râu và đám thanh niên đáng lẽ phải mê mẩn mấy cô đào trong gánh chiếu bóng rong vẫn viếng thăm Baud mỗi tháng một lần; và cả một dòng người khác, phiền toái hơn gồm những tang gia nguyền rủa hai chị em vì đã bỏ bùa mê thuốc lú khiến con trai họ có những hành vi bạo hành bản thân, những nhát dao và đòn roi chết người, thậm chí (có một trường hợp) tự thiêu. Mặc dù vậy, ngoại trừ mấy trường hợp cá biệt hiếm hoi ấy, những đứa con của nửa đêm đã lớn lên mà hầu như không biết tới những anh chị em đích thực của mình, những đồng-bạn-được-lựa-chọn trên khắp chiều dài và bề rộng của viên kim cương thô và thiếu cân xứng Ấn Độ.
Thế rồi, dưới tác động của một cú sốc sau một tai nạn xe đạp, tôi, Saleem Sinai, bỗng nhiên biết về tất cả bọn họ.
Với những ai có nếp suy nghĩ quá cứng nhắc để có thể chấp nhận được những sự thật ấy, tôi xin nói thế này: chuyện là như thế đấy; không có cách nào chối bỏ sự thật đâu. Tôi đành phải chìa vai ra hứng gánh nặng ngờ vực từ những kẻ hoài nghi. Nhưng không một ai biết đọc tại đất nước Ấn Độ này của chúng tôi lại có thể hoàn toàn miễn nhiễm khỏi kiểu tin tức mà tôi sắp sửa hé lộ - không một độc giả nào của nền báo chí nước nhà có thể bỏ qua hàng loạt đứa trẻ thần kỳ và dị nhân đủ loại – dù phải thừa nhận là ở cấp độ thấp hơn. Mới tuần trước, có một cậu bé người Bengal tuyên bố mình là Rabindranath Tagore đầu thai và bắt đầu ứng khẩu những vần thơ vào loại xuất sắc, trước sự kinh ngạc của cha mẹ; và chính tôi còn nhớ được có những đứa trẻ hai đầu (đôi khi một đầu người, một đầu thú) và những đặc điểm kỳ dị khác như sừng bò.
Tôi phải nói ngay rằng không phải mọi thiên phú của những đứa trẻ đều đáng mong muốn, thậm chí không được chính chúng mong muốn; và, với một số trường hợp những đứa trẻ sống sót nhưng bị tước mất những phẩm chất mà nửa đêm ban cho. Ví dụ (để song hành với chuyện hai chị em ở Baud) để tôi kể chuyện một cô bé ăn mày tại Delhi tên là Sundari, ra đời ở một con phố phía sau Bưu điện Trung tâm, không xa cái mái nhà nơi Amina Sinai đã lắng nghe Ramram Seth là mấy, người có một sắc đẹp dữ dội đến mức chỉ trong khoảnh khắc cô bé chào đời nó đã làm mù cả mẹ cô lẫn các bà hàng xóm sang đỡ đẻ giúp; cha cô, khi xông vào phòng khi nghe tiếng thét của mấy người đàn bà, được họ cảnh báo kịp thời; nhưng chỉ một thoáng nhìn cô con gái là đã làm thị lực ông tổn thương nặng nề đến mức từ đó trở đi ông không thể phân biệt người Ấn và du khách ngoại quốc, một thương tật ảnh hưởng nghiêm trọng đến năng lực kiếm tiền của một ăn mày như ông. Sau đó, suốt một thời gian Sundari buộc phải quấn một tấm giẻ ngang mặt; cho tới khi bà cô già nua tàn nhẫn của mẹ cô bé giơ đôi tay xương xẩu đón lấy cô và rạch chín nhát lên mặt cô bằng một con dao làm bếp. Vào thời điểm tôi biết về cô, Sundari đang có một nguồn thu nhập ổn định, bởi không một ai đã nhìn cô mà không thấy xót thương cho một cô gái rõ ràng đã từng đẹp lóa mắt người mà giờ dung nhan lại bị hủy hoại tàn nhẫn đến vậy; cô nhận được nhiều tiền bố thí hơn bất kỳ ai trong nhà.
Vì không có một đứa trẻ nào lại đi ngờ rằng thời điểm ra đời của mình lại có liên quan tới sự dị thường ở chúng, tôi cũng phải mất một thời gian mới khám phá ra. Ban đầu, sau tai nạn xe đạp (đặc biệt sau khi những người diễu hành ngôn ngữ đã thanh tẩy Evie Burns ra khỏi đầu tôi), tôi tự thỏa mãn với việc khám phá ra, từng cái một, bí mật của những sinh thể huyền bí đã bất ngờ xuất hiện trong trường linh giác của tôi, hăng say sưu tầm chúng, theo cách mấy đứa nhóc sưu tầm côn trùng, hoặc đếm tàu hỏa; đánh mất hứng thú với lưu bút và mọi hình thái khác của bản năng hái lượm, tôi liền, mỗi khi có thể, đắm mình vào thế giới biệt lập và tươi sáng hơn trên tổng thể, của năm trăm tám mươi mốt đứa trẻ. (Hai trăm sáu mươi sáu trong số tụi tôi là con trai; và về số lượng chúng tôi bị phe con gái áp đảo – ba trăm mười lăm người bọn họ, kể cả Parvati. Parvati-phù-thủy.)
Những đứa trẻ nửa đêm!... Từ Kerala, một cậu bé có khả năng bước vào trong gương và bước ra qua bất kỳ bề mặt phản quang nào trên mặt đất - qua mặt hồ hay (tuy khó khăn hơn) vỏ kim loại bóng loáng của những chiếc ô tô... một cô bé người Goa có biệt tài nhân bội cá... rồi những đứa trẻ có khả năng biến hình; một người sói từ Đồi Nilgiri, và từ vùng lưu vực mênh mông Vindhyas, một cậu bé có thể tùy ý tăng giảm kích cỡ của mình, và (một cách ma mãnh) là nguyên nhân của những hoảng loạn và đồn đại về sự tái xuất của người Khổng lồ... ở Kashmir, có một đứa trẻ mắt xanh mà tôi không xác định được giới tính, vì bằng cách ngâm mình vào nước cậu (hay cô) có thể hoán đổi nó theo ý cô (hay cậu) ta muốn. Bọn tôi có người gọi nó là Narada, người gọi nó là Markandaya, tùy câu chuyện cổ tích nào về chuyển đổi giới tính bọn tôi được nghe... gần Jalna, chính giũa trung tâm bình nguyên Deccan khô hạn tôi phát hiện ra một đứa trẻ có năng lực tìm ra nguồn nước, và ở Budge-Budge, ngoại ô Calcutta, một cô bé lưỡi sắc mà mỗi lời có sức mạnh gây ra thương tích, nên sau khi vài người lớn thấy mình chảy máu ồ ạt vì vài lời châm chọc cô thuận miệng ném ra, họ quyết định nhốt cô vào lồng tre thả trôi sông Hằng tới rừng Sunbardans (sào huyệt của yêu ma quỷ quái); nhưng không ai dám lại gần cô, và cô đi giữa thị trấn, bao bọc trong khoảng chân không của nỗi khiếp sợ; không ai có can đảm từ chối cô thức ăn. Còn có một cậu bé ăn kim loại và một cô bé ngón tay xanh tới mức trồng được những trái cà tím tuyệt hảo giữa sa mạc Thar; và còn nữa còn nữa còn nữa... choáng ngợp trước số lượng của chúng và trước muôn hình vạn trạng huyền bí của những năng lực chúng sở hữu, lúc buổi đầu tôi ít để tâm đến những cái tôi bình thường của chúng; nhưng, một cách tất yếu, những vấn đề của chúng tôi, khi nó phát sinh, là những vấn đề rất đời thường, con người, bắt nguồn từ tính-cách-và-môi-trường; trong những cuộc cãi lộn, bọn tôi chỉ là một lũ nhóc.
Một thực tế đáng chú ý: giờ sinh càng sát nửa đêm, năng lực của bọn tôi càng lớn. Những ai sinh vào những giây cuối của một tiếng ấy chỉ (nói thực là) hơn quái nhân rạp xiếc đôi chút: những cô bé có râu, một cậu bé mang cặp mang hoàn chỉnh của cá chép Mahaseer, cặp song sinh dính nhau với hai cơ thể lủng lẳng dưới một cái đầu và cổ - cái đầu có thể nói hai giọng, một nam, một nữ, và đủ mọi ngôn ngữ lẫn thổ ngữ của tiểu lục địa; nhưng bất chấp sự dị thường của mình chúng vẫn chỉ là những kẻ kém may mắn, những rủi ro sống của một giờ linh thiêng ấy. Càng gần nửa tiếng đầu càng xuất hiện những năng lực lý thú và hữu ích hơn - ở rừng Gir có một cô bé phù thủy sờ vào đâu là chữa lành vết thương ở đấy, con trai một chủ trại chè giàu có tại Shillong được ban phước (mà cũng có thể là họa) không thể quên bất kỳ điều gì cậu ta từng nhìn hay nghe thấy. Song, những đứa trẻ ra đời vào phút đầu tiên – chính những đứa trẻ này đã được dành tặng những tài năng cao quý nhất mà loài người từng mơ tới. Nếu cô, Padma, tình cờ sở hữu một giấy khai sinh trong đó thời gian được ghi chính xác từng giây, cô sẽ biết hậu duệ nào của một đại gia tộc ở Lucknow (chào đời hai mươi mốt giây sau nửa đêm) ở tuổi lên mười đã thành thạo bí quyết của thuật giả kim đã thất truyền, nhờ nó cậu ta đã khôi phục sản nghiệp của gia tộc trâm anh thế phiệt nhưng đã suy vi của mình; và đứa con gái nhà thợ giặt nào từ Madras (mười bảy giây sau) chỉ cần nhắm mắt là bay cao hơn bất cứ loài chim nào; và đứa con trai nhà thợ bạc nào tại Benarsi (mười hai giây sau nửa đêm) được phú cho năng lực du hành vượt thời gian và nhờ vậy có thể tiên đoán tương lai và biết rõ quá khứ... một năng lực mà, vốn dĩ trẻ dại, chúng tôi tin tưởng tuyệt đối khi nhắc đến những gì đã qua và bị lãng quên, nhưng giễu cợt khi cậu ta cảnh cáo về kết cục của chính chúng tôi... may mắn thay, không có bút lục nào về những chuyện này; và, về phần mình, tôi sẽ không tiết lộ - hoặc nếu làm ra vẻ tiết lộ thì sẽ ngụy tạo - tên tuổi và thậm chí cả địa danh; bởi vì, tuy những thông tin này sẽ là chứng cứ tuyệt đối cho những gì tôi kể, song giờ đây, sau tất cả mọi chuyện, những đứa trẻ của nửa đêm vẫn xứng đáng được yên; có lẽ được quên; nhưng tôi hy vọng (trong tuyệt vọng) là vẫn nhớ...
Parvati-phù-thủy sinh ra ở Delhi Cũ, giữa một ghetto chen chúc quanh những bậc thềm của Thánh đường Thứ Sáu. Nơi này không phải là một khu ổ chuột thông thường, mặc dầu những túp lều dựng từ thùng hàng cũ và những miếng tôn lượn sóng và những mảnh bao đay, đứng nhấp nhô chen chúc dưới bóng thánh đường này trông chả khác gì những ngôi nhà xập xệ khác... vì đây là khu trại của những ảo thuật gia, phải, chính nơi đã sinh ra một con Chin ngân nga mà những lưỡi dao đã rạch nát và bầy chó hoang không kịp cứu... cái ổ chuột của giới pháp sư, nơi các fakir và xảo thuật gia và huyễn giả tài ba nhất từ mọi miền lũ lượt đổ về, tìm kiếm vận may tại thủ đô. Cái mà họ thấy là lều tôn, cảnh sát bạo hành, và chuột... Cha Parvati từng là ảo thuật gia lừng lẫy nhất xứ Oudlh; cô lớn lên giữa những nghệ nhân phúc ngữ có thể bảo đá kể chuyện và nghệ nhân uốn dẻo có thể nuốt chân và người nuốt lửa có thể khạc lửa qua hậu môn và những anh hề bi có thể khóc ra nước mắt thủy tinh; cô từng bình thản đứng giữa đám đông há hốc miệng khi cha cắm đinh xuyên cổ cô; và suốt thời gian ấy cô đã bảo toàn bí mật của riêng cô; một điều lớn lao hơn bất kỳ trò ảo thuật tầm thường nào quanh cô; bởi vì Parvati-phù-thùy, ra đời sau nửa đêm chỉ bảy giây, chính là người được ban tặng quyền năng của bậc chân tài, người khai sáng, thiên tài đích thực về phù chú và pháp thuật, môn nghệ thuật không cần xảo thuật.
Vậy là, trong lũ trẻ nửa đêm, đứa thì có năng lực biến hình, bay, tiên tri, phù thủy... riêng hai chúng tôi ra đời đúng nửa đêm. Saleem và Shiva, Shiva và Saleem, mũi và đầu gối và đầu gối và mũi... với Shiva, một giờ này đã ban cho gã sự thiện chiến (của Rama, người giương được cây cung không ai giương nổi; của Arjuna và Bhima; dũng khí của Kuru cùng Pandava[8] hợp nhất, không ai cản nổi, trong gã!)... còn với tôi là tài năng siêu việt hơn hết - khả năng nhìn thấu trái tim và khối óc của con người.
[8] Kuru: một bộ tộc nổi tiếng là thiện chiến trong sử thi Mahabharata. Bhima và Arjuna là hai trong số năm anh em Pandava, những chiến binh dũng mãnh bậc nhất ở vương quốc Kuru.
Nhưng đang là Kali-Yuga; những đứa trẻ của một giờ đêm tối lại chào đời, tôi sợ là, giữa kỷ nguyên của bóng tối; cho nên dù thấy tỏa sáng là việc dễ dàng, chúng tôi lại luôn mơ hồ về việc thế nào là tốt.
Đấy; tôi nói ra rồi đấy. Tôi là – chúng tôi là thế đấy.
Nhìn Padma như thể mẹ cô vừa chết – vẻ mặt cô, với cái miệng không ngừng há ra ngậm lại, là mặt một con cá chim mắc cạn. “Ôi baba!” cuối cùng cô thốt lên. “Ôi baba! Ông ốm rồi; ông vừa nói gì vậy?”
Không, vậy thì dễ dàng quá. Tôi từ chối trốn tránh trong bệnh tật . Chớ mắc sai lầm khi xem những gì tôi vừa tiết lộ chỉ toàn là những lời mê sảng; thậm chí những ảo tưởng vĩ cuồng của một đứa trẻ cô độc, xấu xí. Tôi đã tuyên bố từ trước rằng tôi không nói ẩn dụ; những gì tôi viết (và đọc to cho Padma đang choáng váng) không là gì khác ngoài sự thật theo nghĩa đen, sự thật thề-có-từng-sợi-tóc-trên-đầu-mẹ-tôi.
Lưu địa chỉ wap để tiện truy cập lần sau. Từ khóa tìm kiếm: chatthugian